Tìm kiếm tin tức
CHƯƠNG IX: PHONG TRÀO “BA SẴN SÀNG” PHẢN ÁNH KHÍ THẾ XẺ DỌC TRƯỜNG SƠN ĐI CỨU NƯỚC
10/18/2007 9:04:33 AM

Ngày 5/8/1964, sau khi trắng trợn gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, Mỹ cho không quân tiến hành đánh phá các mục tiêu quan trọng ở miền Bắc như Vinh, Thanh Hoá, Quảng Ninh… mở đầu cuộc chiến tranh bằng không quân chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, xâm phạm chủ quyền một quốc gia độc lập. Tuổi trẻ cả nước sục sôi khí thế chống Mỹ cứu nước.

Với lòng yêu nước nồng nàn và chí căm thù giặc sâu sắc, chỉ 4 ngày sau khi Mỹ cho máy bay và tàu chiến đánh phá miền Bắc (9-8-1964), 26 vạn lượt đoàn viên, hội viên, thanh niên, học sinh, sinh viên Hà Nội đã xuống đường tuần hành, biểu thị quyết tâm chống Mỹ xâm lược với tinh thần “Ba sẵn sàng”:

1. Sẵn sàng chiến đấu.
2. Sẵn sàng nhập ngũ.
3. Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào Tổ quốc cần.

Chỉ trong một tháng từ sau ngày 9-8-1964 đã có 1,5 triệu nam nữ thanh niên ở tất cả các tỉnh miền Bắc đăng ký “Ba sẵn sàng”. “Ba sẵn sàng” thực sự trở thành phong trào cách mạng sâu rộng của tuổi trẻ miền Bắc.

Từ Hà Nội, phong trào nhanh chóng lan rộng đến các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An. Ngay trong tuần đầu phát động, hàng trăm đoàn viên, hội viên thanh niên ở thị xã Lạng Sơn đã viết đơn tình nguyện. Trong số đó có lá đơn của 11 người con ông Lê Chí Hồ (gồm trai, gái, dâu, rể) thiết tha xin vào bộ đội. Riêng Sơn La, một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây của Tổ quốc, đã có 40 ngàn đoàn viên, hội viên, thanh niên đăng ký tham gia, trong đó có 19 ngàn đăng ký tình nguyện tòng quân lên đường giết giặc.

Ngay từ trận đầu máy bay Mỹ đánh phá một số điểm ở Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình… ngày 5/8/1964, với tinh thần “có lệnh là đi, giặc đến là đánh, đã đánh là phải thắng” thanh niên trong các đơn vị pháo cao xạ và dân quân tự vệ ở các địa phương đã thể hiện rõ ý chí và khả năng chiến đấu, đã chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, hạ máy bay, bắt sống giặc lái. Hải quân nhân dân Việt Nam lần đầu xuất kích với 3 tàu phóng lôi đã đánh đuổi tàu Ma-đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển nước ta. Hôm sau (ngày 6-8-1964) Hải quân nhân dân Việt Nam lại phối hợp với không quân và nhân dân các địa phương khu vực sông Gianh, Cửa Hội, Lạch Trường, Hòn Gai… đánh thắng không quân Mỹ một trận oanh liệt mở đầu trang sử vẻ vang của binh chủng.

Nhiều chiến sỹ trẻ lần đầu đối mặt với máy bay Mỹ đã tỏ ra dũng cảm ngoan cường, kiên cường bám trận địa, bị thương không chịu rời vị trí chiến đấu. Đó là thuyền trưởng tàu 187 Lê Văn Tiếu, một cánh tay bị thương dập nát vẫn dũng cảm chỉ huy đoàn tàu bắn máy bay Mỹ. Đó là hạ sỹ Hoàng Thanh Sơn bị mảnh đạn xuyên thủng bụng, vẫn tiếp tục chiến đấu. Khẩu đội trưởng Lê Sỹ Hằng, dùng dây buộc chân gãy lên thành pháo đứng vững ở vị trí chỉ huy khẩu đội. Là binh nhất Đặng Quốc Bình, 19 tuổi được nghỉ phép về thăm nhà, trên đường về thấy máy bay Mỹ đến bắn phá đã quay lại dùng thuyền nan đuổi theo đơn vị làm nhiệm vụ tiếp đạn cho đồng đội, bị thương 3 lần, một đoạn ruột bị sổ ra nhưng vẫn bình tĩnh dùng tay nhét lại, một tay giữ bụng, một tay tiếp đạn cho đến khi ngã xuống. Đó là pháo thủ Đặng Đình Lống, sau khi bắn không trúng đích theo yếu lĩnh đã học, anh nảy ra ý định ngắm bắn thẳng vào máy bay địch khi nó bổ nhào. Chỉ một điểm xạ ngắn, anh đã bắn rơi ngay một máy bay A4 của địch. Khẩu lệnh nhằm thẳng máy bay địch mà bắn ra đời ngay trên mâm pháo, trong trận đánh đầu tiên này. Sau đó, được áp dụng bắn rơi tiếp 2 máy bay Mỹ. Bị thương lần lượt ở hai chân, anh đã dùng thắt lưng buộc mình vào càng pháo để tiếp tục chiến đấu. Đặng Đình Lống được Nhà nước tặng Huân chương Chiến công Hạng Nhất ngay sau trận đánh.

Ngày 18-11-1964, tại miền Tây Quảng Bình, người chính trị viên trẻ tuổi Nguyễn Viết Xuân sau khi chỉ huy đại đội pháo cao xạ của mình phối hợp chiến đấu trong đội hình của tiểu đoàn bắn hạ một máy bay Mỹ, đã bị thương nặng, chân dập nát. Không do dự, anh đề nghị cứu thương chặt đứt chân cho khỏi vướng và yêu cầu không để các chiến sỹ biết. Anh đứng tựa vào thành công sự tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu. Thấy máy bay Mỹ vẫn liều lĩnh lao xuống cắt bom, Nguyễn Viết Xuân cố nén đau, dồn sức hô to:

- Các đồng chí! Máy bay Mỹ không có gì đáng sợ, học tập Nguyễn Văn Trỗi, các đồng chí nhằm thẳng quân thù mà bắn!

“Nhằm thẳng quân thù, bắn!” đã trở thành khẩu hiệu chiến đấu của toàn quân, toàn dân và thanh niên Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trước hành động leo thang chiến tranh của Mỹ, đêm 2-1-1965, hơn 5 vạn thanh niên Hà Nội lại xuống đường, một lần nữa biểu thị quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Thanh niên các đường phố, các xí nghiệp, trường học... tự tổ chức thành đội ngũ, vai khoác ba lô, lá nguỵ trang đầy người, vũ khí trong tay... hừng hực khí thế ''Ba sẵn sàng'', rầm rập đi trên các đường phố chính tổng duyệt lực lượng. Từ những cuộc hành quân vũ trang liên tiếp được tổ chức như vậy đã trở thành phong trào rèn luyện ''vai trăm cân, chân ngàn dặm'', chuẩn bị sẵn sàng để khi Tổ quốc cần có thể sẵn sàng lên đường nhập ngũ.

Tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và chỉ rõ: “Đối với Đoàn, cần đẩy mạnh phong trào “Ba sẵn sàng” với nội dung và hình thức mới”. Thực hiện “Ba sẵn sàng” đã trở thành nguyện vọng thiết tha, tình cảm cách mạng chân thành của đoàn viên, hội viên, thanh niên Việt Nam.

Ngày 1-4-1965, Trung ương Hội LHTN Việt Nam ra bản tuyên bố: ''Nước Việt Nam là một dải đất thống nhất từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, Tổ quốc chúng ta đang đứng trước một thử thách nặng nề trong lịch sử chống ngoại xâm. Giờ đây, hơn lúc nào hết, hơn 4 triệu nam nữ thanh niên miền Bắc chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để cùng hơn 30 triệu đồng bào cả nước làm nghĩa vụ thiêng liêng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước''.

Hội nghị Ban Chấp hành TW Đoàn lần thứ IX (khóa III) họp ngày 4 đến 7 tháng 5/1965 do đồng chí Vũ Quang, Bí thư Thứ nhất TW Đoàn, Phó Chủ tịch Hội LHTNVN chủ trì, đã quyết định nhiệm vụ của Đoàn trong lúc này là "Đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng; tổ chức động viên 4 triệu đoàn viên và thanh niên miền Bắc tiến lên hàng đầu trên mặt trận sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam và đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội".

Quán triệt nhiệm vụ của Đảng, của Đoàn, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Hội LHTNVN lần thứ 5 (5/1965) đã đề ra nhiệm vụ chung của Hội: "Mở rộng hơn nữa khối đoàn kết thanh niên, đoàn kết tất cả các tầng lớp thanh niên thành một khối vững chắc, tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, bồi dưỡng họ trở thành những chiến sĩ triệt để cách mạng, trung thành với Tổ quốc, với Đảng, tin tưởng tuyệt đối ở sự lãnh đạo của Đảng, ở thắng lợi cuối cùng, ra sức khắc phục khó khăn, gian khổ, tiến lên hàng đầu thực hiện tốt nhất 3 nhiệm vụ: "Sản xuất và bảo vệ sản xuất, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, học tập, rèn luyện với ý chí kiên cường nhất, với quyết tâm tạo nên một năng suất lao động cao, hiệu suất công tác cao nhất với tinh thần kiên quyết chiến đấu đánh bại mọi hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, động viên mọi khả năng của toàn thể thanh niên kịp thời đáp ứng yêu cầu cấp thiết của cách mạng miền Nam để giữ vững tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa, của cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ hòa bình thế giới".

Hội nghị Ban Chấp hành TW Đoàn lần thứ 9 và Hội nghị TW Hội lần thứ 5 đã bổ sung nội dung phong trào "Ba sẵn sàng":

- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và sẵn sàng nhập ngũ (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ).

- Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào.

- Sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến.
"Ba sẵn sàng" thực sự trở thành phong trào cách mạng sâu rộng của quần chúng thanh niên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.

Ngày 29-7-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 105CT/TW "Về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động thanh niên trong tình hình mới". Chỉ thị khẳng định thanh niên là một lực lượng to lớn có giác ngộ XHCN, có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, có sức khoẻ, nếu được tổ chức giáo dục và lãnh đạo tốt sẽ có nhiều cống hiến cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH. Cho nên "vấn đề đặt ra cho các cấp ủy Đảng và các ngành là phải dựa vào Đoàn TNLĐ với hơn 1 triệu đoàn viên mà tổ chức, động viên cho được 4 triệu thanh niên nam nữ trên miền Bắc tiến lên hàng đầu trên mặt trận sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tích cực bảo vệ miền Bắc XHCN và góp phần vào giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc".

Bản Chỉ thị đã định hướng cho tổ chức Đoàn, tổ chức Hội và phong trào thanh niên những nhiệm vụ cụ thể trên các mặt sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới, đồng thời coi việc ra sức củng cố Đoàn TNLĐ và tăng cường đoàn kết tập hợp thanh niên là một đảm bảo để vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử là lực lượng xung kích đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Nhà nước giao phó.

Chỉ thị 105/CT/TW chỉ rõ nhiệm vụ đoàn kết, tập hợp thanh niên là: "Cần tăng cường đoàn kết và giáo dục thanh niên ngoài Đoàn, nhất là thanh niên công nông đi đầu trong sản xuất, chiến đấu, học tập. Cần quan tâm giáo dục, rèn luyện thanh niên con em các gia đình địa chủ, tư sản, thanh niên các tôn giáo và thanh niên chậm tiến, giúp cho anh chị em đó nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, đoàn kết chung quanh các chi đoàn, phân đoàn và giao cho họ những công tác thích hợp với trình độ và khả năng để giúp họ tiến bộ".

 Là người tổ chức, rèn luyện các thế hệ thanh niên Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến từng bước trưởng thành của tuổi trẻ. Ngày 20/7/1965, Người kêu gọi thanh niên: "Các cháu thanh niên gái cũng như trai hãy thực hiện tốt "Ba sẵn sàng", xung phong hiến dâng tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội".

Cũng vào thời điểm này, nhân dịp Quốc khánh lần thứ XX của nước Việt Nam dân chủ độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên thanh niên. Bác khen ngợi: "Các cháu là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng", đồng thời Bác căn dặn thanh niên "Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Không sợ gian khổ, hi sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

Tháng 12/1965, Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng lần thứ XII khẳng định: "Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc ta".

Thực hiện nhiệm vụ của Đảng và của Đoàn, thanh niên trong các lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ đã thể hiện tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường, giặc đến là đánh, đã đánh là thắng. Thanh Hóa anh hùng là một minh chứng lịch sử. Kể từ ngày 3 và ngày 4 năm 1965 cho đến suốt hai đợt gây chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc, cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá) luôn là mục tiêu đánh phá của chúng. Tại đây diễn ra những trận chiến đấu hiệp đồng tuyệt vời giữa các quân, binh chủng, các lực lượng không quân, hải quân, bộ đội cao xạ, dân quân tự vệ… lực lượng không quân trẻ tuổi lần đầu tiên xuất kích đã lập công vẻ vang. Ngày 3-4 biên đội máy bay Phạm Ngọc Lan đã bắn rơi 2 chiếc F8. Ngày 4-4 biên đội máy bay Trần Hanh bắn rơi 2 chiếc F105. Các đoàn tàu hải quân cơ động, linh hoạt chăng lưới dày đặc, góp phần hạ máy bay địch.

Các lực lượng pháo cao xạ và dân quân tự vệ ngoan cường, dũng cảm giữ vững vị trí chiến đấu. Nhiều chiến sỹ trẻ pháo cao xạ như Vũ Minh Dương, 2 lần bị thương vẫn không chịu rời trận địa, Lê Như Đắc bị ngất, nhưng khi tỉnh lại hỏi ngay: “Cầu có việc gì không? Anh em có ai việc gì không?”.

Lực lượng dân quân tự vệ Hàm Rồng – Nam Ngạn luôn tỏ ra ngoan cường, xông xáo hết vị trí này đến vị trí khác, phục vụ chiến đấu và chiến đấu dũng cảm. Hàn Thị Tĩnh, Trương Thị Thạch… những tay súng bắn máy bay Mỹ tầm thấp quyết liệt, khi có pháo thủ bị thương đã nhanh chóng thay thế vị trí, đảm bảo các khẩu đội pháo cao xạ có thể chiến đấu liên tục. Ngô Thị Sáu, Ngô Thị Dung và nhiều nam nữ thanh niên Nam Ngạn dũng cảm bơi ra giữa dòng sông Mã, dưới làn mưa bom của địch, cứu thuyền chở lương thực, tiếp đạn, mang lá ngụy trang cho tàu hải quân. Nguyễn Thị Hằng cùng đồng đội đã nêu cao tinh thần chiến đấu và phục vụ chiến đấu gan dạ trong nhiều đợt đánh trả máy bay Mỹ. Ngô Thị Tuyển, trong khí thế khẩn trương, quyết liệt đã vác một lúc cả hai hòm đạn nặng 98 kg, gấp 2 lần trọng lượng cơ thể mình, kịp thời tiếp đạn cho bộ đội đánh trả máy bay địch. Trong những ngày chiến đấu căng thẳng với máy bay Mỹ, lúc nào Ngô Thị Tuyển cũng xông xáo, lúc tiếp đạn, lúc mang cơm và nước uống cho bộ đội. Sau này, Ngô Thị Tuyển được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Với một tiềm lực quân sự khổng lồ, đế quốc Mỹ đã sử dụng đủ mọi máy bay từ "thần sấm, con ma" đến siêu pháo đài bay B52, F111 cánh cụp cánh xoè…áp dụng đủ các thứ chiến thuật đánh phá của không quân, hải quân đánh phá ác liệt các mục tiêu trong đất liền, đánh phá cả những hòn đảo ở ngoài biển xa. Nhiều hòn đảo trở thành những túi đựng bom, đạn của không quân và hải quân Mỹ như: Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ, Hòn Ngư, Hòn Mắt…. Nhưng cũng chính trong những điều kiện ác liệt đó, những chiến sỹ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang càng bộc lộ rõ phẩm chất sẵn sàng của mình, giữa mưa bom bão đạn vẫn “rắn như thép, vững như đồng”. Đó là Thái Văn A, chiến sỹ quan trắc của đảo Cồn Cỏ, ngày đêm bám vị trí chiến đấu, kể cả lúc bom đạn địch trút xuống quanh mình dày đặc, anh vẫn bình tĩnh quan sát, thông báo kịp thời từng diễn biến để đơn vị tổ chức đánh địch có hiệu quả. Anh trở thành “Cây rađa sống" của đảo. Bùi Thanh Phong, một pháo thủ gan góc, mấy lần bị bom Mỹ vùi xuống đất, cả mấy lần anh đều đội đất đứng lên tiếp tục chiến đấu. Cùng với tập thể đảo Cồn Cỏ, Thái Văn A và Bùi Thanh Phong đã được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Cồn Cỏ trở thành biểu tượng sức mạnh, chiến thắng của quân và dân ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ…

Vào thời điểm quyết liệt của cuộc chiến đấu, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam phát động phong trào giành danh hiệu “Đơn vị quyết thắng”. Cũng thời gian này, Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam quyết định đặt cờ thưởng mang chân dung Nguyễn Văn Trỗi tặng những tập thể lập công xuất sắc trong chiến đấu, sản xuất, học tập và rèn luyện. Về sau Trung ương Đoàn còn đặt phần thưởng huy hiệu mang chân dung Nguyễn Văn Trỗi tặng những cá nhân có thành tích xuất sắc. Khí thế thi đua lập công của tuổi trẻ các lực lượng vũ trang và trong mọi đối tượng thanh niên ngày càng sôi nổi. Những gương sáng về hạ máy bay địch tại chỗ, ngay từ loạt đạn đầu xuất hiện ngày một nhiều. Đó là tập thể tiểu đoàn pháo cao xạ Nguyễn Viết Xuân, các lực lượng pháo phòng không bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác… Cảnh giác cao, cơ động, linh hoạt, đón đánh địch trong mọi tình huống, đã đánh là thắng, là những chiến sỹ trẻ kiên cường, dũng cảm có quyết tâm tiêu diệt địch cao, Nguyễn Văn Mật, 26 tuổi, tiểu đội trưởng súng máy trực tiếp chiến đấu hơn 200 trận với máy bay, tàu chiến Mỹ, trận nào cũng lập công. Binh nhất pháo cao xạ Nguyễn Hữu Ngoạn, 21 tuổi, trong một năm liên tục chiến đấu 60 trận, có 3 lần bị thương vẫn không rời vị trí. Đó là các chiến sỹ trẻ trong các lực lượng tên lửa, ra đa, thông tin, hậu cần, công binh.vv… ngày đêm chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu giữ vững bầu trời và mặt biển của Tổ quốc.

Tại lễ kỷ niệm trọng thể lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn (26/3/1931 – 26/3/1966) Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Với một thế hệ thanh niên hăng hái, kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Vì vậy Bác rất tự hào, sung sướng và như thấy mình trẻ lại”.

Đánh giá cao vai trò xung kích cách mạng của tuổi trẻ và luôn đặt rõ vị trí của thanh niên trong tiến trình cách mạng, đặc biệt vào lúc cả nước trong tình trạng trực tiếp chiến đấu chống Mỹ, tại Lễ kỷ niệm ngày truyền thống vẻ vang của Đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tin tưởng trao cho thế hệ trẻ lá cờ mang dòng chữ: “Vì chủ nghĩa xã hội, vì lý tưởng cộng sản, thanh niên anh dũng tiến lên”.

Tuân theo lời dạy của Bác Hồ và Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhân ngày kỷ niệm thành lập Đoàn, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã ra lời kêu gọi đoàn viên và thanh niên phát huy khí thế “Ba sẵn sàng”, hăng hái tiến lên hàng đầu trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyết đem lá cờ trăm trận trăm thắng của Đảng và Bác Hồ vĩ đại tới đích thắng lợi cuối cùng. Tại buổi lễ trang trọng này đã vang lên lời thề “Ba sẵn sàng” chống Mỹ, cứu nước:

“Vì nghĩa vụ thiêng liêng chống Mỹ cứu nước
Vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.
Chúng ta thề:

1. Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, dù phải đánh 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, dù phải hy sinh gian khổ đến mức nào, chúng ta cũng quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.

2. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối cách mạng của Đảng để thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

3. Kiên quyết thực hiện “Ba sẵn sàng”
Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang.
Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào.
Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”.

Đứng trước tình hình đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, vận mệnh Tổ quốc đứng trước những thử thách quyết liệt, tháng 7/1966, Hội đồng Quốc phòng được triệu tập do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp. Tiếp đó căn cứ vào quyết định của Hội đồng Quốc phòng tối cao và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố Lệnh động viên cục bộ. Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nghĩa vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. Tất cả chúng ta hãy đoàn kết nhất trí, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người chỉ rõ: “Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân xâm lược hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng ngàn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng…”. Và “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!  Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Người dạy: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”.

Những nhiệm vụ chiến lược đặt ra trong bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trở thành động lực thúc đẩy mọi tầng lớp thanh niên Việt Nam siết chặt hàng ngũ trong mọi hành động cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp của toàn dân.

ở quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong một gia đình gồm có 4 con là sinh viên: Nguyễn Phương Dung 23 tuổi, sinh viên năm thứ năm trường Đại học Y Hà Nội, Nguyễn Phương Diệp 21 tuổi, sinh viên năm thứ tư, Nguyễn Phương Duyên, 19 tuổi, sinh viên năm thứ 3 trường Đại học Nông nghiệp và Nguyễn Phước Tuân 17 tuổi học sinh học nghề ở nhà máy cơ khí Quang Trung cùng viết đơn xin nhập ngũ.

Cũng ở Hà Nội, còn có 28 anh chị em ruột, anh chị em con bác, con chú, trong gia đình đồng chí Nguyễn Thị Minh (ở quận Ba Đình) đã cùng đứng một lá đơn thiết tha xin được nhập ngũ và tái ngũ. Có nhiều lá đơn gửi đến Hội đồng nghĩa vụ quân sự thiết tha xin được nhập ngũ đã viết bằng máu.

Đặc biệt trong số hàng nghìn lá thư tình nguyện vào Nam chiến đấu tới tấp gửi đến toà soạn Báo Nhân dân, có lá thư mang 23 chữ ký của kỹ sư, cán bộ kỹ thuật công tác ở Cục Điện lực – Bộ Công nghiệp nặng, ghi lời tha thiết ở đoạn cuối “… Chúng tôi đã sẵn sàng kể cả sẵn sàng hi sinh cuộc sống của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, và đang hằng ngày hằng giờ chờ lệnh”.

Yêu cầu của công tác tuyển quân ngày càng cao, cả về số lượng và chất lượng, về sức khoẻ, trình độ văn hoá và kỹ thuật chiến đấu. ở Hoà Xá (huyện ứng Hoà, Hà Tây) Đảng bộ và chính quyền xã đã tổ chức khám sức khoẻ cho những người từ 18 đến 35 tuổi. Những người sức khoẻ loại một được bổ sung vào đơn vị sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến, mệnh danh là “bộ đội làng”, thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao thể lực, tổ chức rèn luyện hành quân xa, mang vác nặng, học tập kỹ thuật chiến đấu để khi cần lập tức lên đường chiến đấu. Những người sức khoẻ loại hai trở thành du kích trực chiến trận địa. Những người còn lại vào dân quân xã làm nhiệm vụ canh phòng.

Ngày “bộ đội làng” lên đường trở thành bộ đội chính quy thật sự là một ngày hội. Gia đình, người thân chọn trong dãy tre đằng ngà bao quanh làng kháng chiến cũ những đoạn thẳng nhất, làm thành những chiếc gậy gửi theo các chiến sĩ ra tiền tuyến gọi là “gậy Trường Sơn”. Những người ở lại, vợ hoặc người yêu, được tặng chiếc nhẫn thuỷ chung, có khắc con số “500”, là kỷ niệm chiếc máy bay thứ 500 bị bắn rơi trên miền Bắc, do dân quân Hoà Xá bắn hạ ngày 17-7-1967. Năm 1968, Ban Bí thư Trung ương  Đoàn ra quyết định công nhận Hoà Xá là xã có phong trào tòng quân khá nhất và phát động các địa phương làm như Hoà Xá.

Trong phong trào học tập và làm theo Hoà Xá, thanh niên các địa phương đã sáng tạo nhiều hình thức phong phú, cổ vũ tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng nhập ngũ, động viên hàng triệu đoàn viên và thanh niên lên đường ra trận, với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Chỉ riêng tỉnh Hà Tây, trong hơn 10 năm từ 1965 –1975, đã có trên 17 vạn lượt, tỉnh Thái Bình có trên 20 vạn lượt v.v… thanh niên tòng quân chiến đấu trên khắp các chiến trường.

Nhiều thanh niên tỉnh Hà Tây ra đi theo tiếng gọi “Ba sẵn sàng”, chiến đấu trên khắp các chiến trường, đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Tiêu biểu là Anh hùng lực lượng vũ trang Trịnh Tố Tâm. Anh tòng quân khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong cao trào “Ba sẵn sàng” và vào ngay chiến trường ác liệt nhất, Trị Thiên –Huế. Tại đây anh đã cùng đơn vị chiến đấu mưu trí, dũng cảm, diệt hơn 1500 tên Mỹ – nguỵ, phá huỷ 61 xe quân sự, đánh lật 19 đoàn xe của địch. Riêng Trịnh Tố Tâm đã diệt 272 tên địch, trong đó có 185 tên Mỹ, bắn rơi và phá huỷ 3 máy bay lên thẳng, được tặng thưởng 20 huân chương các loại và 53 lần được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”.

Tòng quân và đi Thanh niên xung phong là những biểu hiện sinh động của khí thế “Ba sẵn sàng”.

Được Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ giao nhiệm vụ, tháng 3/1965, Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam (nay là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh) phát động trong đoàn viên, thanh niên phong trào tình nguyện gia nhập Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung). Chỉ sau một tháng đã có hơn 10 vạn đoàn viên và thanh niên đăng ký sẵn sàng lên đường. Ngày 25-4-1965, đội TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung) đầu tiên được thành lập gồm 1200 đội viên nam của tỉnh Thanh Hoá, tổ chức thành 9 đại đội cấp tốc lên đường vào miền Tây Quảng Bình làm nhiệm vụ.

Đầu tháng 6/1965, hai đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) mang số hiệu 23 và 25 của Hà Tĩnh cũng được thành lập và lên đường nhận nhiệm vụ làm đường và vận chuyển hàng hoá bằng xe đạp thồ ở Nam Lào và Bắc Quảng Bình do Đoàn 559 quản lý.

Cũng trong tháng 6/1965, các tỉnh đã lần lượt tổ chức các đội TNXP chống Mỹ cứu nước với tổng số quân 8.856 đội viên vào phục vụ ở Đoàn 559 (Bộ Quốc phòng). Do yêu cầu cấp bách của chiến trường, việc tổ chức lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) được triển khai rất khẩn trương. Chưa kịp ổn định tổ chức, các đơn vị đã phải cấp tốc hành quân trên những chặng đường dài 300-400, thậm chí hàng ngàn ki-lô-mét dưới bom đạn địch. Đến hiện trường hầu hết các đơn vị phải tự làm lấy lán trại để ở, tự làm công cụ để sản xuất.

Đến tháng 7/1965, phong trào tình nguyện gia nhập lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) càng được đẩy mạnh. ở khu phố Hoàn Kiếm (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) yêu cầu tuyển 200 đội viên TNXP đã có trên 1000 đoàn viên, thanh niên đăng ký. ở huyện Gia Lộc (Hà Tĩnh) tỉ lệ đó là 3192/400. Trong số người tình nguyện, tỉ lệ nữ thường chiếm tới 60-70%. Có chị đã nói: “Nam thanh niên được tham gia bộ đội, tham gia các ngành nhiều rồi nay phải nhường phần cho nữ thanh niên”. Có những gia đình 2-3 chị em ruột cùng tuổi thanh niên đã giành nhau để được đi thanh niên xung phong. Ai cũng hiểu rõ đi thanh niên xung phong là phải chấp nhận gian khổ, hi sinh nhưng tuổi trẻ khát khao được cống hiến sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách.

Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước thật sự là nơi tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp thanh niên trong xã hội vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

Gia nhập lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước trở thành tình cảm, thành nỗi khát vọng của nhiều đoàn viên, thanh niên. Thanh niên các dân tộc thiểu số ở Lạng Sơn, Lào Cai, Bắc Thái (nay là Bắc Kạn, Thái Nguyên), Thanh Hoá… trước đây ít khi đi xa gia đình, giờ nhận thức được trách nhiệm của tuổi trẻ cũng hăng hái lên đường làm nhiệm vụ. Thanh niên theo đạo Thiên chúa ở Nam Định, Ninh Bình cũng tình nguyện gia nhập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước.

Theo thống kê đợt đầu tuyển TNXP đã có trên 1000 thanh niên các dân tộc thiểu số, 1360 thanh niên theo đạo Thiên chúa tham gia. Cả những nhà sư như sư nữ Đàm Thị Dần, trước đây khi cắt tóc đi tu, Dần chỉ muốn được tĩnh tâm. Nhưng trước cảnh nhà tan cửa nát do giặc Mỹ gây ra, Dần muốn được phá giới. Đàm Thị Dần mạnh dạn viết đơn gửi Đoàn Thanh niên xã và gặp sư bà xin cho mình đi TNXP. Sư bà tỏ ra thông cảm vì Dần ăn chay niệm Phật đã 6 năm, sắp được lên sư bác, nên bà có ý ngần ngại. Dần không nản và làm tiếp đơn thứ hai, gửi thẳng cho Huyện Đoàn đề nghị giúp đỡ. Ngày lên đường của Đàm Thị Dần thật sự là một ngày hạnh phúc. Cô hăng hái đi bộ 400km từ Hà Nội vào tận phía Tây Nam Hà Tĩnh làm nhiệm vụ.

Trong vòng 3 tháng, từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1965, gần 5 vạn đội viên thanh niên xung phong đã được tập hợp trong 32 đội, trong đó 7 đội do Đoàn 559 (Bộ Quốc phòng) quản lý làm nhiệm vụ mở đường mới và vận chuyển trên tuyến hành lang ở Quảng Bình và trên chiến trường miền Nam, chiến trường Lào, 7 đội do Tổng cục đường sắt quản lý, hoạt động dọc theo tuyến đường sắt từ Ninh Bình đến Nghệ An; số còn lại làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông mở đường mới do ngành giao thông vận tải quản lý, chủ yếu hoạt động trên các tuyến đường 1A, 15, 21, 22, 22B, 20 (còn có tên gọi là đường Quyết Thắng), v.v… chốt giữ ở hầu hết các trọng điểm Đò Lèn, Hàm Rồng, Cầu Cấm, Hoàng Mai (trên đường số 1), Bãi Dinh, Mụ Giạ (đường 12A), đèo Ba Trại, ngầm Hạ Trạch (đường số 2, Quảng Bình), phà Địa Lợi, ngã ba Đồng Lộc, khe Tang, khe Rinh, đèo Đã Đẽo, phà Xuân Sơn, phà Long Đại (đường 15), cua chữ A, K59, dốc Đồng Tiến (đường Quyết Thắng)…

Tháng 9/1965, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam phát triển mau lẹ, cần một lực lượng trẻ, khoẻ làm nhiệm vụ trên tuyến đường dây liên tỉnh Trị – Thiên. Được Đảng giao nhiệm vụ, Trung ương Đoàn đã trực tiếp chỉ đạo 3 tỉnh Nam Hà, Ninh Bình, Hà Tây tuyển mỗi tỉnh 110 đoàn viên thanh niên nam tuổi từ 18–25 mang phiên hiệu Đoàn K53. Trong những tháng cuối năm 1965 đầu năm 1966 các tỉnh, thành phố đều lần lượt thành lập đội TNXP chống Mỹ, cứu nước do địa phương quản lý. Hà Nội có đội 51, Hải Phòng có đội 77, Ninh Bình có đội 3, Thanh Hóa thành lập thêm đội 696, Bắc Thái có đội X 91 - TC .v.v…

Do những thành tích chiến đấu của toàn quân và toàn dân đã đạt được, đầu tháng 1 năm 1967, Đại hội Anh hùng và chiến sỹ thi đua chống Mỹ cứu nước đã tuyên dương 45 đơn vị anh hùng và 111 anh hùng, trong đó có 44 anh hùng là thanh niên, đặc biệt có 12 anh hùng là nữ thanh niên. Trong buổi tiếp các đơn vị anh hùng và anh hùng dự Đại hội, Bác Hồ căn dặn: “Các anh hùng và đơn vị anh hùng dự Đại hội anh hùng phải luôn luôn khiêm tốn, không được kiêu ngạo. Phải luôn luôn đoàn kết giúp đỡ nhau, cố gắng học hỏi, không ngừng sản xuất, công tác và chiến đấu để tiến bộ mãi, lập nhiều thành tích to lớn hơn nữa, làm tròn mọi nhiệm vụ, góp phần cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước".

Cũng vào thời điểm này, cán bộ chiến sỹ đoàn 125 vận tải biển đã được Nhà nước ta tuyên dương là đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước và để thống nhất sự chỉ đạo, ngày 29-8-1968, Ban Bí thư TW Đoàn TNLĐ Việt Nam đã quyết định thành lập Tổng đội TNXP chống Mỹ, cứu nước 768, bao gồm các đội 39,31,45,35 đang làm nhiệm vụ trên các tuyến đường 22 và 22B. Tổng đội đảm nhận toàn bộ công trình kiến thiết cơ bản và đảm bảo giao thông trên 2 tuyến đường này. Đồng chí Bùi Nguyên Tích, Uỷ viên BCH Đoàn Thanh niên Giao thông Vận tải (GTVT) Trung ương, nguyên đội trưởng đội 39 được chỉ định làm Tổng đội trưởng.

Trong những năm chiến đấu chống Mỹ, giao thông vận tải đã trở thành một mặt trận nóng bỏng. Các tuyến đường huyết mạch, các bến phà, cầu cống đã bị máy bay địch đánh phá tới trên 80 nghìn trận, chiếm gần 70% số trận chúng đánh phá miền Bắc. Mức độ đánh phá ngày càng ác liệt, quy mô đánh phá ngày càng mở rộng. Chúng sử dụng tất cả những loại máy bay tối tân, hiện đại nhất từ F105, đến F111A, cả siêu pháo đài bay B52… sử dụng đủ các loại bom, kể cả bom từ trường, la de, bom phá, bom bi, bom nổ chậm, đánh phá ngày đêm với nhiều thủ đoạn chiến thuật xảo quyệt nhằm chặn đứng việc chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải thật sự “là một thiên anh hùng ca” như lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói.

Chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải những năm kháng chiến chống Mỹ có đủ các lực lượng, bộ đội công binh, bộ đội hậu cần, công nhân ngành Giao thông Vận tải, nhân dân các địa phương… đông đảo hơn cả là lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước.

Chỉ tính từ ngày thành lập đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (đầu tiên năm 1965 đến giữa năm 1968), các đơn vị TNXP nhiệm kỳ I đã mở 15 tuyến đường mới, 200 đoạn đường tránh. Tổng cộng khoảng gần 1000 km, mở rộng và nâng cấp khoảng 345 km, xây dựng trên 500 công trình bao gồm cầu, cống, ngầm, đập, bến, bãi, đường băng sân bay: Phụ trách đảm bảo giao thông trên những quãng đường dài khoảng 1300 km. Tổng khối lượng đất đá do lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước nhiệm kỳ I đào đắp khảng trên 10 triệu 300 ngàn m3.

Với ý chí: “Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm” và “máu có thể đổ nhưng đường không thể tắc”, lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước đã dũng cảm, ngoan cường, mưu trí, sáng tạo, ngày đêm lăn lộn với đường, với cầu, thật sự trở thành lực lượng xung kích đáng tin cậy trên những con đường ra trận.

Đại đội 759 thuộc đội 75 TNXP Quảng Bình thành lập tháng 6/1965 được giao nhiệm vụ đảm bảo giao thông trên tuyến đường 12A. Chỉ tính đến tháng 6/1966, máy bay Mỹ đã đánh vào tuyến đường do đơn vị phụ trách 663 trận, với 5570 quả bom. Bình quân mỗi đội viên trong đơn vị phải hứng chịu 40 quả bom lớn, không kể bom bi, rốckét, đạn 20ly.

Tiểu đội 6 thuộc đại đội 759 do Nguyễn Thị Kim Huế làm tiểu đội trưởng, suốt 60 ngày đêm không lúc nào vắng mặt trên tuyến. Nơi nào có khó khăn nguy hiểm, nơi đó có mặt tiểu đội 6. Tất cả đều chung ý chí sắt thép: “Còn đất là còn đường”.

Lần đầu địch đánh bom nổ chậm vào tuyến đường, đơn vị chưa ai có kinh nghiệm phá bom, Nguyễn Thị Kim Huế không ngần ngại xung phong vào phá bom. Những đội viên nam thấy thế cũng làm theo. Từ đó bom nổ chậm không còn cản trở được công việc ứng cứu đường của TNXP đại đội 759. Khi địch tập trung đánh dứt điểm, khối lượng giải quyết rất lớn. Để kịp thông xe, Nguyễn Thị Kim Huế đưa ra sáng kiến cạp bờ hố bom, mở đường tránh cho xe vựơt qua. Đường thông, cả tiểu đội 6 lại tình nguyện gác bom nổ chậm, làm cọc tiêu sống dẫn đường cho xe qua trọng điểm.

Tại Đại hội Anh hùng Chiến sỹ thi đua chống Mỹ cứu nước lần thứ nhất, đại đội 759 và Nguyễn Thị Kim Huế đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng, là tập thể và cá nhân đầu tiên được phong tặng danh hiệu Anh hùng của lực lượng TNXP, cổ vũ mạnh mẽ TNXP chống Mỹ, cứu nước hăng hái thi đua lập công.

Cùng đội 75 có Lê Viết Lân, TNXP đại đội 754. Địch đánh bom nổ chậm, có quả trúng tim đường. Nếu phá được bom, đường sẽ hỏng, không đảm bảo kịp thông xe. Lân đề xuất phương án tìm cách lăn quả bom ra khỏi tuyến đường và xung phong nhận nhiệm vụ nguy hiểm đó. Lợi dụng một gờ đất, anh dùng xà beng bẩy thử. Bom bị kích thích, nóng dần lên. Không để bom nổ làm hỏng đường, Lân dùng bộc phá buộc vào phía dưới thân bom, châm lửa, để bộc phá nổ hất quả bom lên khỏi mặt đường trước khi nổ. Vừa chạy được 20mét, bom nổ hất anh ngã xuống. Khi tỉnh dậy, điều đầu tiên anh hỏi là: “Đường có làm sao không”.

Lê Viết Lân không chỉ là người đầu tiên phá bom nổ chậm. Anh cũng là người đầu tiên tìm được giải pháp giải phóng đôi vai cho đơn vị, đưa năng suất lao động lên 150 – 180%. Chưa đầy 1 năm gia nhập lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước, Lê Viết Lân đã là chiến sỹ thi đua xuất sắc đi dự Đại hội Anh hùng Chiến sỹ thi đua chống Mỹ, cứu nước lần thứ nhất.

Chiến công nổi bật trong mở đường và giữ đường của TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung) phải kể đến lực lượng tham gia trên tuyến đường Quyết Thắng (còn có tên đường mòn Hồ Chí Minh, đường Thống Nhất). Trong đó chủ yếu là TNXP 2 đội: 23 (Hà Tĩnh) và 25 (Nam Hà). Cả hai đội TNXP 25 và TNXP 23 đều có mặt trên tuyến đường từ những ngày đầu, phối hợp cùng bộ đội công binh đồng loạt ra quân “chọc thủng Trường Sơn mở đường thắng lợi”. Nhiều đoạn đường phải mở qua vực sâu, đèo cao xe cơ giới không thi công được. Đoạn vượt dốc Đồng Tiền là một vách đá cheo leo, TNXP phải bám từng vỉa đá, treo mình lơ lửng trên vách, đục đá, nổ mìn tạo thành một hàm ếch, dài tới hơn nửa km.

Mở đường đã khó, nhưng giữ vững con đường là một chiến công thấm đẫm máu của không ít TNXP. Ngay khi con đường đang được mở, ngày 13-3-1966, địch đã phát hiện ra con đường vựơt qua đỉnh Trường Sơn và lập tức cho máy bay đánh phá. Các đội viên TNXP đội 25 đang thi công trên tuyến, bị đánh vào đội hình, lần đầu tiên 8 đội viên hy sinh.

Con đường vừa mở xong, địch đã tập trung đánh phá có tính huỷ diệt. Cua chữ A, nằm trên đoạn đường Km 79, chạy quanh co theo bình độ của núi, một bên là vách núi cao, một bên là vực sâu. Đường gấp khúc, do đó hình thành A mẹ và A con. Một loạt bom thả xuống có thể phá hỏng cả 2A. Mỗi ngày chúng thường đánh vào trọng điểm từ 15 – 20 trận. Có thời gian chúng đánh liên tục 32 trận bằng máy bay chiến lược B52. Có trận chúng thả xuống hàng trăm tấn bom. Có đêm chúng thả liên tục từ 500 – 700 quả pháo sáng. Trọng điểm lúc nào cũng sáng rực như ban ngày.

Từ một rừng cây cổ thụ xanh tươi, cua chữ A biến thành màu đỏ quạch, màu nâu thẫm, màu đen sạm của tro bụi, của thuốc bom đạn địch. Ngót chục km2 đồi núi mấp mô dày đặc hố bom như một tổ ong khổng lồ, trơ trụi. Đất đá bị cày xới, biến thành một chất bột đen xỉn, đi bộ lội ngập ống chân.

Cuộc chiến đấu giữ vững cua chữ A trong mọi tình huống trở thành một thử thách khắc nghiệt đối với các đội viên TNXP. Mới đầu đơn vị không muốn các đội viên nữ lên làm nhiệm vụ. Nhưng trong lửa đạn không ai chịu ở tuyến sau. Khi được lên sát cánh chiến đấu bên cạnh các đội viên nam, các đội viên nữ càng nỗ lực bằng mọi cách để tự khẳng định mình. Gặp bom nổ chậm chị em cũng bàn nhau tìm cách phá để khỏi phải nhờ đến đội viên nam. Nhưng quả bom trúng tim đường. Nếu cho bom nổ sẽ phá hỏng đường, khối lượng đất đá lớn khó lòng đảm bảo thông xe trong đêm. Nguyễn Thị Vân Liệu, cô gái Hà Nam phải trốn theo đơn vị ngày nào đã đề xuất cách gói mìn theo hình phễu, tra kíp thuận chiều, dùng áp lực của bộc phá đẩy quả bom lên trên mặt đất mới nổ. Cái khó là phải đào một hố sâu phía dưới thân bom. Cuốc xẻng không đào được. Liệu xung phong dùng dao quỳ xuống bên quả bom, một tay ôm thân bom, một tay kia luồn xuống phía dưới để đặt bộc phá. Bom nổ, chỉ để lại một hố sâu bằng chiếc nón trên mặt đường. Sáng kiến của Nguyễn Thị Vân Liệu được phổ biến cho toàn binh trạm 14 và toàn tuyến đường áp dụng. Chị vinh dự được Bác Hồ tặng Huy hiệu của Người và Nhà nước tặng Huân chương Chiến công Hạng Hai. Tháng 4-2000, Nhà nước ghi công đã tặng Nguyễn Thị Vân Liệu danh hiệu Anh hùng.

Chỉ trong một thời gian ngắn trên tuyến đường Quyết Thắng đã hình thành nhiều trọng điểm hết sức ác liệt, K68, K59, K12 (Dốc Đồng Tiền)… Có những trọng điểm nằm trên đoạn đường cua gấp khúc. Chỉ cần một loạt bom cũng có thể phá hỏng tới 3 km đường. Có trọng điểm như ở K 59 (km 59) có đêm chúng tập trung đánh phá tới 38 trận (đêm 11-10-1968), làm khoảng 6000m3 đất đá đổ ụp xuống mặt đường. Trọng điểm K12, vốn từ một vách đá cao dựng đứng được tạo thành con đường xuyên qua hàm ếch. Kẻ địch nham hiểm dùng rốckét phóng vào vách đá. Mùa mưa đến, chúng dùng bom phá đánh xuống đỉnh núi, làm từng khối đá bị rốckét bắn vữa, đổ ụp xuống. Đến nỗi lấp cả nửa dòng suối Xuân Sơn chảy phía dưới con đường. Chúng đã tập trung đánh vào trọng điểm trong một đợt kéo dài 3 tháng 14 ngày (từ 16/7 đến 30/10/1968) tới 16253 quả bom. Có 4273 quả trúng đường, 500 quả trúng vào lán trại của TNXP.

Trong hoàn cảnh ác liệt, TNXP đội 25 luôn “lấy tim đường làm chiến trường, lấy quyết chiến điểm làm trận địa”, ngày đêm bám đường, sáng tạo nhiều phương pháp thích hợp, đảm bảo thông xe trong mọi tình huống, nâng chỉ tiêu thông xe từ 15 đến 20 rồi 30 đêm một tháng. Từ sáng kiến của đại đội 5 toàn đội đã áp dụng chiến thuật “3 tổ một đội” và biện pháp 3 nhanh (nghĩa là một đội ứng cứu đường chia làm 3 tổ: Tổ trinh sát đi trước đào lỗ chôn mìn, tổ lấp và đốt mìn, tổ san lấp hố bom. Biện pháp 3 nhanh là: Tiếp cận nhanh, giải quyết nhanh và rút nhanh). Nhờ đó lực lượng rải thưa, hạn chế được thiệt hại khi tiếp cận mục tiêu bị địch đánh phá, đồng thời đảm bảo nhanh chóng thông xe. TNXP đội 25 còn sáng tạo phương pháp đánh mìn định hướng, kết hợp máy gạt san lấp, đưa năng suất lấp một hố bom 100m3 mất 50 – 60 người làm trong một đêm mới xong, xuống chỉ còn 5-7 người lấp trong 2 tiếng đồng hồ, đảm bảo vượt chỉ tiêu thông xe, dù đường bị liên tục đánh phá ác liệt với nhiều thủ đoạn tinh vi, “bom chồng lên bom, đạn cày lên đạn”, cũng chỉ bị tắc giờ, không bị tắc đêm.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung) đã làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông trên 3000 km đường, trong đó có 2526 trọng điểm địch thường xuyên đánh phá ác liệt. Nhiều trọng điểm của các tuyến đường đã gắn liền với các đơn vị tiêu biểu và những chiến công nổi bật của TNXP chống Mỹ, cứu nước, như trọng điểm Cầu Cấm nằm trên tuyến đường 1A, do đơn vị TNXP 333, Tổng đội TNXP Nghệ An chốt giữ. Riêng năm 1968, không quân Mỹ đánh vào địa bàn hoạt động của đại đội 881 trận, ném xuống 21104 bom phá các loại, 267 bom bi mẹ, 1127 tên lửa, tàu chiến Mỹ pháo kích vào tuyến đường 54 trận với 1265 quả đại bác.

TNXP đại đội 333 nêu quyết tâm “Dù máu ngừng chảy, quyết không để đường tắc, xe ngừng chạy”, ngày đêm bám đường, bám cầu đảm bảo thông xe thông tuyến trong mọi tình huống. Ngày 27-1-1969, đơn vị vinh dự được Bác Hồ gửi thư khen. Bác viết: “Suốt 4 năm nay, Đội TNXP số 333 nhận nhiệm vụ làm đường, sửa cầu, ở một nơi địch thường đánh phá ác liệt, có nhiều khó khăn, gian khổ.

Đội gồm phần lớn là các cháu gái, đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn.

Các cháu đã đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau, khiêm tốn học hỏi các chú công nhân và bộ đội, được đồng bào thương yêu. Các cháu đã chăm học chính trị, văn hoá và làm văn nghệ khá, biết giữ gìn sức khoẻ tốt, đảng viên và đoàn viên trong đội gương mẫu. Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng.

Bác rấzt vui lòng khen ngợi các cháu…”

Cùng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, trọng điểm Truông Bồn, nằm trên đường 15, giáp giới giữa hai huyện Đô Lương và Nam Đàn đã gắn liền với sự tích 12 cô gái của tiểu đội thép đơn vị 300 TNXP Nghệ An dũng cảm hi sinh trong khi đang làm nhiệm vụ.

Chỉ tính riêng 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10/1968 máy bay Mỹ đã đánh xuống Truông Bồn 2692 quả bom.

Chính trong những thời điểm địch đánh phá ác liệt, các cô gái Truông Bồn trong tiểu đội thép đã đưa hàng ngàn xe qua trọng điểm. Có những đêm đến 438 lượt xe qua lại, họ vẫn hướng dẫn xe đi an toàn trên quãng đường truông dài 5 km. Trời tối, đèn gầm của xe sợ lộ, không dám bật, các đội viên TNXP lấy bẹ chuối rải trên mặt đường làm cự cho xe vượt qua trọng điểm. Nhưng bẹ chuối trắng cũng bị nát, lấm bùn. Các đội viên TNXP lại lấy thân mình, mặc áo trắng, chạy trước xe để dẫn đường, hết chiếc này đến chiếc khác.

Mỗi trọng điểm trên các tuyến đường đều gắn với những chiến công của TNXP chống Mỹ, cứu nước.

Trọng điểm đèo Đá Đẽo trên đường 15 gắn với tên tuổi người con gái anh hùng Đinh Thị Thu Hiệp, xông xáo giữa kho đạn bị máy bay địch đánh phá mở đường máu cứu hàng, cứu xe.

Trọng điểm đèo Mụ Dạ, trên đường 12, nơi rèn luyện lên người cán bộ TNXP Nguyễn Thị Nậy, chỉ một chiến dịch 67 ngày đêm bảo vệ tuyến đường đã có 14 lần bị sức ép, 7 lần bị thương, 9 lần bị vùi lấp vẫn liên tục bám tuyến.

Trọng điểm khe Giao, khe út, đường 21 là chiến trường lập công của Anh hùng Nguyễn Trí Ân, chỉ được học hết lớp 3 phổ thông, gia nhập lực lượng TNXP khi mới được học hết lớp 7 bổ túc văn hóa, nhưng không một loại bom hiện đại nào có thể khuất phục được anh. Với cương vị tiểu đội trưởng trinh sát phá bom, anh đã bình tĩnh quan sát chính xác và cắm tiêu báo hiệu 432 quả bom nổ chậm và bom từ trường, tự tay dùng mìn, bộc phá và sử dụng bằng kim khí phá 32 quả bom nổ chậm và từ trường, cùng đồng đội phá 113 quả, gỡ được 3 quả.

Nổi bật là trọng điểm ngã ba Đồng Lộc, thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Chỉ tính riêng trong 240 ngày, từ tháng 3 đến tháng10/1968, không quân Mỹ đã trút xuống ngã ba nhỏ hẹp này 43.600 quả bom, trong đó có 6.000 quả bom nổ từ trường và bom nổ chậm

Trong thời gian ác liệt đó, La Thị Tám, cô gái tuổi 20, công nhân ngành giao thông Hà Tĩnh được phân công làm nhiệm vụ trinh sát đếm bom. Khó khăn và nguy hiểm. Lúc bom rơi dù sát ở bên mình vẫn phải hết sức tỉnh táo để không bỏ sót một quả bom chưa nổ nào không được đánh dấu trên bản đồ. Chị đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng.

Cùng chiến đấu trên ngã ba Đồng Lộc và cùng được tặng danh hiệu Anh hùng với La Thị Tám là Đại đội TNXP 551(đội 55 – TNXP Hà Tĩnh) và 10 cô gái Đồng Lộc huyền thoại (đại đội 552, đội 55).

Trong 10 cô gái chỉ có Võ Thị Tần và Hồ Thị Cúc là TNXP nhiệm kỳ I được lưu lại, 8 đội viên còn lại đều thuộc TNXP nhiệm kỳ II, nhập ngũ giữa năm 1968. Tất cả đều ngã xuống trên mặt đường trong thời gian đang làm nhiệm vụ.

Tại Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước lần thứ nhất, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: "Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đặc biệt thấm sâu và nảy nở trong thế hệ trẻ, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc. Lứa tuổi 20 kế tục một cách trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của chúng ta".

*
*   *

Sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đi đầu trong sản xuất, công tác không ngừng vươn lên nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, phấn đấu giành năng suất lao động cao và hiệu suất công tác tốt là một cuộc chiến đấu gay go gian khổ của tuổi trẻ khi miền Bắc nước ta vừa chiến đấu, vừa sản xuất vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH. Bám máy, bám đồng ruộng, bám cơ quan… trong hoàn cảnh phải đọ sức quyết liệt với những trận đánh phá có tính hủy diệt của không quân nhà nghề Mỹ đã trở thành một thử thách đối với phẩm chất của thế hệ thanh niên "Ba sẵn sàng".

Từ năm 1966 trở đi, phong trào “Ba sẵn sàng” tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đi vào chiều sâu, đến với từng đối tượng thanh niên như “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”… nhà máy điện Hàm Rồng (Thanh Hoá) là mục tiêu đánh phá có tính huỷ diệt của không quân Mỹ. Giữ vững dòng điện an toàn trong mọi tình huống là những thanh niên công nhân cảm tử. Các anh đã xin ở lại nhà máy đến cùng để giữ vững dòng điện: “Xin cho chúng tôi ở lại đến cùng”, trở thành ý chí của thanh niên công nhân bám máy sản xuất trong mọi tình huống. Thanh niên công nhân Nhà máy điện Vinh, Nhà máy điện Uông Bí, Nhà máy điện Yên Phụ… đã xây dựng cả một hệ thống phòng tránh đến tận từng điểm nóng, cả từ trên tầng cao, đảm bảo kịp thời ứng phó với mọi tình huống xấu nhất, khi bom Mỹ đánh thẳng vào nhà máy. Thanh niên công nhân Nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội) ngay từ những ngày đầu khi địch đánh phá miền Bắc đã thành lập đội “Cảm tử bảo vệ dòng điện” thay nhau vừa trực chiến vừa vận hành máy. Trong suốt thời gian chiến tranh ác liệt, dòng điện từ Nhà máy điện Yên Phụ vẫn đảm bảo cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân và cho công tác chỉ huy chiến đấu.

Để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực, do một lực lượng lớn thanh niên được huy động ra tiền tuyến, Thành Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội đã phát động phong trào “giỏi một việc, biết nhiều việc” để sẵn sàng thay thế những người đi chiến đấu và phong trào “3 điểm cao thắng Mỹ”… một mặt, động viên tinh thần lao động quên mình của đoàn viên, thanh niên, mặt khác hướng công nhân tiến quân vào khoa học kỹ thuật, khắc phục khó khăn do thiếu nguyên, nhiên vật liệu, máy móc phân tán không đồng bộ… đảm bảo nhịp độ sản xuất trong thời chiến.

Học tập và thi đua với thanh niên công nhân Hà Nội, thanh niên công nhân các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Nam Hà, Nghệ An, Quảng Ninh… Đã sáng tạo nhiều phương pháp thiết thực, đẩy mạnh sản xuất trong những điều kiện khó khăn thiếu thốn. Thanh niên công nhân Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình) đã “nhường thuận lợi cho bạn, nhận khó khăn về mình”, “vượt khó, làm nhanh”, “nhận giờ cao điểm, nhận nơi trọng điểm”. Nhiều cơ sở Đoàn đã tổ chức những đội thanh niên xung kích đảm nhận sản xuất trong những giờ nghỉ, ngày nghỉ, thành lập các đội thanh niên cảm tử, bám máy sản xuất ngay cả khi địch đánh phá ác liệt.

Bằng nhiều biện pháp tích cực, Đoàn Thanh niên trong các cơ sở sản xuất công nghiệp coi việc bám máy của người công nhân là nhân tố trước hết đem lại năng xuất cao trong một ca sản xuất, đã động viên đoàn viên và thanh niên tranh thủ mọi thời gian để có thể làm ra sản phẩm. Thanh niên mỏ Hà Tu (Quảng Ninh) đã đề ra sáng kiến tăng thêm giờ công hữu ích vì nước vì dân. Đoàn vận tải của mỏ mỗi ca chạy thêm 15 phút vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, nhờ đó chạy tăng thêm được 3 chuyến mỗi ca. Tổ khoan của mỏ phấn đấu tăng từng thước khoan sâu. Thực chất đó là những biện pháp để tận dụng hết thời gian có ích trong một ca sản xuất và thực tế đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Từ bình quân khoan 500m/ngày tổ đã nâng lên 700m/ngày.

Việc nhận công trình, sản phẩm mang tên thanh niên ngày càng trở nên phổ biến. Hầu hết ở cơ sở sản xuất công nghiệp nào, Đoàn cũng nhận những công trình sản phẩm theo từng cấp quản lý. Hình thức ca, máy thanh niên, lò thanh niên… cũng phát triển khá phổ biến. Về sau, để đi vào nề nếp và nâng cao chất lượng của các ca máy thanh niên, Ban Thanh niên công nhân của Trung ương Đoàn đã nghiên cứu và đề ra những tiêu chuẩn như tổ sản xuất, những ca, máy thanh niên, đoàn viên, thanh niên phải chiếm đa số, có nhiệt tình, ham tìm tòi sáng tạo, luôn giành được năng suất cao. Tổ rèn 5, phân xưởng cơ khí Công ty Gang thép Thái Nguyên là một đơn vị sản xuất gồm toàn thanh niên nhưng công việc thường phụ thuộc vào đơn vị khác. Nhiệm vụ sản xuất phần lớn đột xuất, mặt hàng luôn thay đổi, trong khi trình độ tay nghề của công nhân còn thấp. Thanh niên trong tổ thấy chỗ yếu của mình nên thường xuyên tổ chức những hội nghị chuyên đề kỹ thuật, mời các bác thợ bậc cao đến trao đổi kinh nghiệm, bàn bạc sắp xếp thợ theo từng cặp, khi phân công công việc đều dựa theo khả năng của từng cặp để giao. Nhiều sản phẩm đòi hỏi độ chính xác cao, nhờ việc tổ chức hợp lý tổ vẫn hoàn thành, chất lượng đảm bảo, có sản phẩm tăng năng suất tới 436%.

Nét nổi bật của thanh niên công nhân thời kỳ đánh Mỹ là ham tìm tòi, ham sáng tạo. Đáng chú ý là trình độ tay nghề của thanh niên công nhân thời kỳ này rất thấp, bình quân chỉ trên dưới bậc hai. Hầu như trong các ngành công nghiệp thời kỳ này không có một thợ bậc 6, bậc 7 nào ở độ tuổi thanh niên. Nhưng với tinh thần dám nghĩ, dám làm, nhiều đoàn viên và thanh niên đã vượt lên những hạn chế về kiến thức, tay nghề luôn tìm tòi, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất đem lại hiệu quả thiết thực. ở nhà máy chế tạo điện có thanh niên đang hưởng 80% lương bậc 1 vẫn phát huy sáng kiến đưa năng xuất lên tới 300%. Cả năm 1966 thanh niên công nhân nhà máy này đã có 156 sáng kiến cải tiến, năm 1967 con số đó là 575. Có đoàn viên phát huy tới 4-5 sáng kiến, cải tiến, như trường hợp Trần Độ, tổ trưởng sản xuất nguội; như Đậu Ngọc Xuân, Vũ Ngọc Thìn (cảng Hải Phòng) luôn chịu khó học hỏi để sử dụng thành thạo các loại thiết bị hiện đại, phục vụ kịp thời đòi hỏi của sản xuất và chiến đấu. Nguyễn Hữu Trường, Ngô Viết Dưỡng (Vĩnh Phú), Ngô Trung Loan (Công ty xây dựng than điện)… Những thanh niên công nhân, tay nghề chỉ bậc 1, bậc 2, trình độ văn hoá có người chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở, nhưng với lòng say mê nghề nghiệp, chịu khó tìm tòi đã phát huy được nhiều sáng kiến cải tiến có giá trị, góp phần giải toả nhiều khó khăn, ách tắc trong sản xuất. Có sáng kiến làm lợi cho công quĩ hàng ngàn đồng (giá của những năm 60), tăng năng xuất tới 300-400%.

Các phong trào của thanh niên nông thôn như: làm thủy lợi, bèo hoa dâu, cấy theo lối mới, phá giờ cao điểm, đường cày đảm đang, tuổi trẻ “Ba sẵn sàng” trên mặt trận sản xuất nông nghiệp đã đạt những kết quả rực rỡ với việc: xây dựng “cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ” bằng nhiều biện pháp tổng hợp, góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng: “5 tấn thóc, 2 con lợn, 1 lao động làm một héc-ta gieo trồng".

“Cánh đồng năm tấn thắng Mỹ” là một phương thức hoạt động sáng tạo của thanh niên nông thôn trên đồng ruộng. Đến năm 1967 đã có tới 85% cơ sở Đoàn, Hội ở nông thôn đảm nhận việc xây dựng “cánh đồng 5 –10 tấn thắng Mỹ”. Đó là những cánh đồng đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp kỹ thuật, từ việc cải tạo đồng ruộng, áp dụng biện pháp tưới tiêu theo khoa học, đến việc cấy dày vừa phải. Thông qua hoạt động trên cánh đồng 5 –10 tấn thắng Mỹ, thanh niên được rèn luyện về kỹ năng lao động, góp phần hình thành một đội ngũ những người làm nghề nông mới.

Vũ Thắng (Kiến Xương, Thái Bình) là một hợp tác xã nông nghiệp nằm ở “rốn nước” chưa mưa đã bị úng ngập, độ PH trên đồng ruộng có cánh đồng lên tới 7,8. Người dân Vũ Thắng có thói quen chỉ cần cắm cây mạ xuống đồng ruộng rồi phó mặc cho trời đất. Thực hiện chủ trương của Đảng phấn đấu giành mục tiêu 5 tấn/ha gieo trồng/ năm, nhân dân Vũ Thắng đã lấy thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng làm mục tiêu đột phá. Thanh niên Vũ Thắng trở thành lực lượng xung kích đi đầu trong cải tạo đồng ruộng quê hương. Với những đêm “Hội hoa đăng” thắp đèn chai trên đồng để làm thuỷ lợi. Đoàn viên và thanh niên Vũ Thắng cũng là những người đi đầu áp dụng những biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, từ việc ngâm ủ giống đến việc cấy theo lối mới, tưới tiêu hợp lý…. Trong đó Hoàng Thị Huyền - một cán bộ kỹ thuật nông nghiệp của HTX luôn đứng mũi chịu sào, tổ chức cho thanh niên đi đầu thực hiện thành công nhiều biện pháp kỹ thuật đồng bộ, trước hết trên những thửa ruộng đối chứng, sau đó nhân rộng ra ruộng đại trà, góp phần đưa Vũ Thắng trở thành HTX đạt được mục tiêu 5 tấn thóc/ha/năm đầu tiên trên miền Bắc và giữ vững lá cờ đầu trong thâm canh năng suất cây lúa trong nhiều năm, 7 –8 tấn rồi 9,7 tấn…ha/năm.

Thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ trong thâm canh tăng năng suất cây trồng đòi hỏi đồng ruộng phải có độ đồng đều nhất định, trước hết là mặt ruộng. Thanh niên HTX Thọ Bình (Hưng Yên) và thanh niên ở nhiều địa phương khác đã tổ chức nhiều chiến dịch “kê ” ruộng bằng phương pháp san gò cao, lấp thùng đấu, lấy bùn ao đổ lên mặt ruộng, có thửa đã được "kê" lên tới 10 cm, đảm bảo cho việc tưới tiêu và áp dụng các biện pháp khoa học khác được thuận lợi.

Phân bón cũng là một biện pháp được hội viên và thanh niên coi trọng trong quá trình phấn đấu thâm canh tăng năng suất cây trồng. Nhiều cơ sở Đoàn thường xuyên tổ chức các chiến dịch làm phân bón, vừa tận dụng các nguồn phân, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong việc ủ phân và chế biến phân, kể cả việc ủ phân tại ruộng. Coi bèo hoa dâu là nhà máy phân đạm tự nhiên, nhiều cơ sở Đoàn, Hội đã có những biện pháp đồng bộ trong việc nhân, ủ bèo, phấn đấu đạt từ 1 đến 2,5 diện tích bèo trên một đơn vị diện tích gieo cấy. Không chỉ ở vùng có kinh nghiệm nuôi thả bèo như ở Thái Bình, Nam Hà… mà ngay cả những tỉnh chưa có truyền thống sử dụng bèo hoa dâu trong thâm canh cây lúa như Nghệ An, đoàn viên và thanh niên cũng kiên trì nuôi thả được bèo hoa dâu trong mùa hè.

Bên cạnh thời tiết khắc nghiệt thì bom đạn Mỹ nhiều phen cũng gây khó khăn cho các ruộng bèo phát triển. Nhiều ruộng bèo được đoàn viên và thanh niên hợp tác xã Đông Phương Hồng và ở nhiều nơi khác phải kiên trì nhặt từng cánh bèo hoa dâu do bom Mỹ quật nát đem rửa sạch tiếp tục ươm thả, đảm bảo diện tích cấy lúa được phủ kín bèo. Nhiều nơi đoàn viên và thanh niên còn tận dụng những hố bom để ươm thả bèo hoa dâu trước khi đưa ra đại trà làm cho diện tích bèo hoa dâu tăng lên đáng kể, tạo ra một nguồn phân đạm tự nhiên đảm bảo tăng năng suất cây trồng.

Khai thác nguồn phân tự nhiên, thanh niên Ninh Bình còn có sáng kiến trồng điền thanh mô, một biện pháp tận dụng diện tích gieo trồng một loại cây phân xanh có hiệu quả cao, đảm bảo khi lúa được thu hoạch, cây điền thanh có thể vùi ngay xuống ruộng làm phân bón.

Nhân kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn (26/3/1931 – 26/3/1966) trong thanh niên nông thôn ngoại thành Hà Nội xuất hiện phong trào “3 sào, 5 việc”. 3 và 5 là tượng trưng cho ngày kỷ niệm Đoàn lần thứ 35 (3 sào là nhận chăm sóc 3 sào ruộng xa, 5 việc làm như làm cỏ, bón phân, tưới tiêu nước, phòng trừ sâu bệnh)… Chương trình phát thanh Thanh niên của Đài tiếng nói Việt Nam và các báo đều đưa tin kịp thời việc làm thiết thực này, cổ vũ thanh niên nông thôn các nơi khác cùng làm theo. Một phong trào nhận ruộng xa, ruộng xấu chăm sóc phát triển sâu rộng trong đoàn viên và thanh niên ở hầu khắp các địa phương và kéo dài trong nhiều năm. Trên các cánh đồng, tấm biển: “Nhận ruộng chăm sóc của thanh niên” được cắm phổ biến. Nhiều biện pháp kỹ thuật như bón phân, làm cỏ đều được thực hiện tăng hơn ruộng đại trà.

Từ những thửa ruộng do thanh niên nhận chăm sóc, đã tiến lên xây dựng những cánh đồng, những khu ruộng thanh niên.

Từ trước, ở Yên Vực, Thanh Hoá cũng như ở nhiều nơi khác, phụ nữ thường ít phải làm những công việc nặng nhọc như cày bừa trên đồng ruộng. Khi phần lớn nam thanh niên phải ra mặt trận, công việc đồng áng phụ nữ phải đảm đang. Không còn cách nào khác, chị em phải đứng ra tập đảm nhận trọng trách này. Phá bỏ cả một tập tục có từ lâu đời, chị em phải vượt qua không ít khó khăn, kể cả dư luận xã hội. ở nhiều cơ sở, chị em phải tổ chức học cày vào ban đêm. Nhờ đó nhiều phụ nữ thanh niên nông thôn đã trở thành lao động chủ lực trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp với đường cày đảm đang.

Phong trào học tập, rèn luyện nâng cao trình độ nghề nông trở thành phổ biến trong thanh niên nông thôn. Các cơ sở Đoàn, Hội thường xuyên phối hợp với ngành nông nghiệp tổ chức cho thanh niên học tập nắm vững kỹ thuật thâm canh, trước hết đối với cây lúa và con lợn.

Với đội ngũ những người làm nghề nông ngày càng có kiến thức, những cánh đồng 5–10 tấn thắng Mỹ, hoặc những khu đồng, cánh đồng thanh niên đã thật sự mang lại hiệu quả nhiều mặt, trong đó có việc góp phần nâng độ đồng đều của đồng ruộng, trong từng vùng, từng tỉnh – một biện pháp quan trọng góp phần giành mục tiêu 5 tấn thóc/ha/năm, trong điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Qua nhiều vụ thu hoạch, những cánh đồng 5–10 tấn thắng Mỹ, những khu đồng thanh niên, tuy phần lớn đều xây dựng từ những khu ruộng xấu, vẫn cho năng suất cao hơn hẳn ruộng đại trà từ 10–15% có nơi thu hoạch trội hơn tới 1–1,5 tấn thóc.

Cùng với Thái Bình, tỉnh đầu tiên đạt mục tiêu 5 tấn thóc/ha, các tỉnh, thành phố khác ngay trong những năm tháng khẩn trương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đều có những điển hình thâm canh đạt năng suất cao: Quỳnh Lưu, Đô Lương là những huyện của tỉnh Nghệ An nằm trong vùng đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ, nhưng thanh niên nông thôn cùng bà con xã viên vẫn bám đồng ruộng thâm canh cây trồng. Thanh niên đã tổ chức những đội xung kích cày cấy và thu hoạch ở những khu vực địch thường xuyên đánh phá ác liệt. Nhiều lần vào thời điểm lúa chín, không quân Mỹ đã thả bom nổ chậm, bom từ trường vào ruộng lúa, thanh niên nông thôn Nghệ An đã vừa tổ chức lực lượng phá bom, vừa thành lập những đội cảm tử đến gặt lúa tại những nơi nguy hiểm, không bỏ phí một hạt thóc. Nhiều hợp tác xã ở Quỳnh Lưu, Đô Lương, Diễn Châu… đã đạt mục tiêu 5 tấn.

Thanh niên chi đoàn Yên Vực, Thanh Hóa sống giữa một "túi bom" phía bắc cầu Hàm Rồng phải đào hầm chữ A trên đồng để tránh bom đạn địch; khi cần thiết vẫn kiên trì áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến để làm ra 5 tấn thóc trên một ha/năm. Thanh niên Vĩnh Linh trong điều kiện phải đối phó với các hoạt động đánh phá của máy bay Mỹ, nhiều cánh đồng bị bom Mỹ cày đi cày lại… không chỉ đảm bảo diện tích cày cấy mà còn áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật… làm ruộng thí nghiệm, chăm sóc ruộng cao sản đạt nhiều hiệu quả. Đinh Như Gia, đội trưởng sản xuất trẻ tuổi đã biết lợi dụng các kẽ hở trong qui luật đánh phá của máy bay Mỹ và tàu chiến Mỹ, tổ chức đoàn viên, thanh niên ra đồng đảm bảo năng suất lúa tăng liên tục và trở thành Anh hùng nông nghiệp đầu tiên của Vĩnh Linh ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Sơn La là một tỉnh miền núi cao, nhưng từ những năm 1966 – 1967 phong trào xây dựng cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ cũng đã được triển khai ở nhiều vùng nông thôn, góp phần cùng các biện pháp thâm canh khác để đến năm 1968 cũng đã có 10 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc/ha. Đến năm 1972, Sơn La đã có 7 xã và 54 hợp tác xã đạt mục tiêu 5 tấn thóc và trên 5 tấn/1ha.

Cùng với thanh niên nông thôn “tay cày, tay súng”, thanh niên vùng biển sẵn sàng “tay lưới, tay súng”, bám biển ngày đêm vừa chiến đấu vừa sản xuất. Tiêu biểu là thanh niên Cảnh Dương (Quảng Bình), thanh niên Hải Thịnh (Hải Hậu, Nam Định), thanh niên vùng biển Vĩnh Linh… vừa làm nhiệm vụ sản xuất, vừa làm nhiệm vụ tiếp tế cho các chiến sỹ đang chiến đấu trên các đảo xa, trong đó có đảo Cồn Cỏ. Nhiều lần các tay lưới thanh niên đã phải chiến đấu liên tục với máy bay, tàu chiến Mỹ để bảo vệ tàu, thuyền và các công cụ sản xuất, bảo vệ tính mạng của ngư dân.

Trong thư gửi cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân, nhân viên, học sinh nhân dịp năm học mới, ngày 16/10/1968, Bác Hồ dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”.

Phong trào “Thi đua dạy tốt và học tốt” trở thành mục tiêu phấn đấu không ngừng của tuổi trẻ trong các trường học. Tổ chức Đoàn trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề cũng như ở các trường phổ thông… đã đóng góp vai trò tích cực trong việc sơ tán trường lớp đến nơi an toàn, lên rừng núi, về nông thôn, xây dựng cơ sở mới để tiếp tục dạy và học. Thanh niên sinh viên trường Đại học Bách khoa và nhiều trường khác ở Hà Nội nêu khẩu hiệu: “Vác trường lên vai đi sơ tán”, dù trong hoàn cảnh nào cũng tiếp tục dạy tốt, học tốt, cũng tiếp tục nghiên cứu khoa học thiết thực phục vụ sản xuất.

ở Vĩnh Linh, Quảng Bình... các lớp học được mở ngay trong hầm địa đạo. Thầy và trò Nghi Hương (Nghi Lộc, Nghệ An) nêu quyết tâm “đội bom đi học”. Trong điều kiện bị địch đánh phá thường xuyên vẫn đảm bảo việc dạy và học. Phong trào có sức cổ vũ hàng triệu học sinh, thầy cô giáo bất chấp bom đạn ác liệt tới trường tới lớp, chỉ với một túi vải đựng sách vở, một chiếc mũ rơm đội đầu. Chiếc mũ bện bằng rơm dùng để đội đầu che chắn bom đạn, nhất là phòng tránh những viên bom bi rất có hiệu quả đã gắn bó, trở thành hình ảnh quen thuộc của học sinh thời chống Mỹ. Nhiều học sinh sau này trở thành những người nổi tiếng như Nghệ sỹ nhân dân Đặng Thái Sơn cũng đã từng đội mũ rơm đi học trong nhiều năm.

Nhiều trường lớp mặc dù đã sơ tán đến các vùng xa, các tiết học vẫn phải đứt quãng nhiều lần vì máy bay Mỹ đến quần đảo, đánh phá. Có lớp học đã trúng bom ngay giữa giờ lên lớp. Nhiều thầy cô giáo và học sinh chết và bị thương. Nhiều lớp học phải đào hầm từ trong lớp thông ra ngoài để kịp sơ tán học sinh, vẫn không tránh khỏi thương vong.

Trong điều kiện khó khăn ác liệt, vai trò của tổ chức Đoàn, Hội trong các trường học càng được củng cố và phát huy tác dụng, góp phần cải tiến chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập. ý thức tự chủ trong học tập của đoàn viên, thanh niên học sinh không ngừng được củng cố và nâng cao làm cho phong trào học tập và rèn luyện phấn đấu trở thành con người mới phát triển toàn diện của thanh niên ngày càng đi vào chiều sâu. Số học sinh đến trường hàng năm vẫn không ngừng tăng. Riêng tỉnh Hà Nam, số học sinh năm học 1965 – 1966 tăng 3,6% so với năm học 1964 – 1965. ở xã Nghĩa Phong (Nghĩa Hưng) trong một năm học, trường bị đánh phá tới 22 lần, học sinh vẫn tới trường, tới lớp đầy đủ, vẫn nêu cao tinh thần "dạy tốt và học tốt".

Chất lượng học tập không ngừng được nâng lên. Trường Bắc Lý (Lý Nhân – Hà Nam) giữ vững lá cờ đầu trong học tập và quản lý trường lớp. Các trường Lê Hồng Phong (Nam Định), Lam Sơn (Thanh Hoá), Phan Đình Phùng (Nghệ An)… cùng các trường học ở Hà Nội, Hải Phòng trở thành những điểm sáng về nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy. Năm học 1968-1969, miền Bắc có 30 trường đại học, cao đẳng với 6 vạn sinh viên, 200 trường trung học chuyên nghiệp với trên 15 vạn học sinh. Như vậy, số trường đại học và trung học chuyên nghiệp đã tăng hơn 2 lần, số học sinh, sinh viên đã tăng hơn 3 lần so với trước chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.

Từ ngày 25-7 đến 6-8-1965 đã diễn ra Đại hội Liên hoan thanh niên, sinh viên Quốc tế lần thứ IX tại Xôphia (thủ đô Bungari) với 20.000 đại biểu của 143 nước tham dự, khẩu  hiệu của Đại hội là: "Đoàn kết với Việt Nam". Đoàn của thanh niên, sinh viên Việt nam có 200 đại biểu do đồng chí Tạ Quang Thiến - Bí thư Trung ương Đoàn dẫn đầu. Đại hội đã dành hẳn ngày thứ 2 cho chủ đề Việt Nam với khẩu hiệu" "Ngày thanh niên thế giới đoàn kết với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược". Tại buổi lễ bế mạc, chủ tịch Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới Rôđônphô Meki nói: "… Cùng với Việt Nam chúng ta có thể đánh bại chủ nghĩa đế quốc".

Trong khí thế sôi nổi thi đua lập thành tích chào mừng Đảng ta 40 tuổi và thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu, Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp Học sinh đại học lần thứ IV đã họp trong 2 ngày 6 và 7 tháng 1 năm 1970 tại Hà Nội. Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ mới là "Thi đua học tốt, xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng, xây dựng nề nếp học tập tốt, phát huy vai trò làm chủ của học sinh trong xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa". Đại hội rất phấn khởi được Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm và nói chuyện với toàn thể các đại biểu.

Phong trào học tập bổ túc văn hoá, Trường Đoàn Văn hoá Kỹ thuật, Trường Thanh niên Dân tộc vừa học vừa làm… được giữ vững và phát triển. Xã Cẩm Bình trở thành những lá cờ đầu trong việc chuyển hướng mục tiêu giáo dục đào tạo. Chi đoàn Đồng Mỹ (Nam Hà) hầu hết đoàn viên, thanh niên đã tham gia bổ túc văn hoá. Chi đoàn 3 điều tra rừng có 280 thanh niên, cả 280 đã đi học và đi dạy bổ túc văn hóa, trong đó có 150 đồng chí học cấp III, 197 đồng chí là công nhân có trình độ trung cấp kỹ thuật, 32 cán bộ có trình độ kỹ sư.

Tỉnh Sơn La trong hoàn cảnh chiến tranh khẩn trương, gần 2 vạn đoàn viên, thanh niên các dân tộc vẫn thường xuyên theo học các lớp bổ túc văn hóa ngoài giờ. Các trường thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa, trường bổ túc văn hóa tập trung… hàng năm thu hút hàng ngàn đoàn viên, thanh niên theo học.

Phong trào học tập bổ túc văn hóa đặc biệt nổi bật trong lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung). Với 3 nhiệm vụ được xác định trong đó có nhiệm vụ học tập.

Đứng trước những đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, tổ chức Đoàn và Hội đã hết sức coi trọng giáo dục, rèn luyện thế hệ thanh niên mới phát triển toàn diện, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và Bác Hồ. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành TW Đoàn lần thứ VIII (khóa III) khẳng định nhiệm vụ giáo dục của Đoàn là “Nhằm đào tạo thanh niên thành lớp người phát triển toàn diện, có đầy đủ khả năng kế tục sự nghiệp cách mạng, lớp người có khí phách và đạo đức cộng sản, trung thành vô hạn với Tổ quốc và lý tưởng cộng sản, căm thù sâu sắc bọn đế quốc và bọn bóc lột, đồng thời nắm vững kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật tiên tiến và có sức khoẻ”.

Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của Đảng, từ tình hình đặc điểm của giai đoạn cách mạng hiện nay, Hội nghị Uỷ ban Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (7/1969) chỉ rõ: "Tăng cường khối đoàn kết thanh niên, phát huy vai trò xung kích cách mạng, đi đầu trong công cuộc chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành lớp người kế tục một cách trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng". Để thực hiện được nhiệm vụ này, công tác giáo dục thanh niên trong thời gian tới phải quán triệt sâu sắc tinh thần xây dựng con người một cách toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu to lớn của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, chuẩn bị cho bước phát triển mới sau này. Nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước còn đòi hỏi thanh niên ta những cố gắng to lớn, tiếp tục đẩy mạnh cao trào "Ba sẵn sàng" trong thanh niên. Nội dung phong trào "Ba sẵn sàng" cần quán triệt tinh thần phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng cường học tập rèn luyện trong thanh niên.

Quán triệt tinh thần do Hội Liên hiệp Thanh niên đề ra, những điển hình cá nhân xuất hiện ngày một nhiều đã góp phần giáo dục tình cảm cách mạng và cổ vũ tuổi trẻ vươn tới những hành động cao đẹp.

“Cuộc đời đẹp nhất là ở trên trận tuyến chống quân thù” và “Nước còn giặc thì còn đi đánh giặc”, tấm gương Lê Mã Lương và nhiều đoàn viên, thanh niên khác thật sự đã làm dấy lên một phong trào tòng quân sôi nổi vào thời điểm cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam đang đòi hỏi sự chi viện sức người, sức của rất lớn.

Tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Đặng Xuân Rương vừa tốt nghiệp khoa Nga một lúc nhận được 2 giấy gọi: Giấy gọi đi học nước ngoài và giấy gọi nhập ngũ. Không đắn đo, do dự, anh chọn con đường làm người chiến sỹ quân đội. Đặng Xuân Rương đã vào chiến trường và hy sinh anh dũng ở mặt trận Khe Sanh. Trường hợp Tô Thị Tính lại khác, chị được bố trí vào vùng địch ở miền Nam hoạt động. Bị địch bắt tra tấn dã man nhưng vẫn giữ vững khí tiết. Sau Hiệp nghị Pari chị được trở về nhận nhiệm vụ mới.

ở trường Đại học Bách khoa có sinh viên Bùi Ngọc Dương tình nguyện nhập ngũ, anh được đề bạt làm trung đội trưởng công binh. Dương đã sang chiến đấu bên cạnh các chiến sỹ Pathét Lào, sau đó đơn vị anh trở về tham gia chiến dịch Làng Vây (Quảng Trị). Dương đã kiên cường cùng đồng đội mở đường cho xe tăng tiến sâu vào trận địa và trong trận chiến đấu quyết liệt này, anh đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc và được truy tặng danh hiệu “Dũng sỹ mở đường” tại trận địa. Sau này anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Bên cạnh Bùi Ngọc Dương còn có Vương Đình Cung, sinh viên trường Đại học Nông nghiệp hy sinh anh dũng tại chiến trường miền Nam, với dòng nhật ký thể hiện lòng yêu nước nồng nàn: “Mẹ Tổ quốc đang cần đến chúng con, chúng con sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho Mẹ”.

Cùng ra chiến trường với Dương còn có Vũ Xuân Thiều. Thiều xin nhập ngũ lúc tròn 20 tuổi, khi đang làm đồ án tốt nghiệp ngành vô tuyến điện. Anh được đi lái máy bay ở Liên Xô (cũ). Đêm 28/12/1972, đêm thứ 11 của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không tại Hà Nội, Thiều đã lao thẳng máy bay của mình vào chiếc B52 của giặc đang gây tội ác. Chiến công vang dội của anh làm cho kẻ thù vô cùng khiếp sợ. Anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Được Đảng và Bác Hồ giáo dục và rèn luyện, các thế hệ thanh niên nước ta đã trưởng thành nhanh chóng và có những cống hiến xứng đáng. Bác Hồ và Đảng đã coi trọng những thành quả vĩ đại của cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau, làm cho Người khi còn sống “rất tự hào, sung sướng và thấy mình như trẻ lại”. Vĩnh biệt chúng ta, Bác Hồ kính yêu đã để lại cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng nước ta “muôn vàn tình thương yêu”. Người đánh giá: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí  tiến thủ”, và căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Người khẳng định: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. (Di chúc).

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1970), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và Đội thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.

Từ ngày 30/6/1970, Tổ chức Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng và Tổ chức Đội Thiếu niên, Nhi đồng miền Nam cũng được chính thức mang tên Bác.

Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành TW Đoàn, với niềm xúc động sâu sắc đã thiết tha kêu gọi toàn thể cán bộ, đoàn viên và thanh niên: “Hãy ra sức thi đua sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập. Chúng ta quyết học tập và làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, rèn luyện lập trường, tư tưởng, trau dồi đạo đức phẩm chất cách mạng, nâng cao trình độ về mọi mặt, phấn đấu trở thành lớp người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như Bác đã dạy.

“Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” trở thành nguyện vọng tha thiết và quyết tâm phấn đấu của thế hệ trẻ nước ta. Đây là sự biểu hiện cụ thể lòng thương nhớ và biết ơn của thế hệ trẻ đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết mãi mãi làm theo lời dạy của Người và đi theo con đường mà Người đã vạch ra.

“Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” trở thành khẩu hiệu hành động cụ thể, thân thiết và gần gũi nhất đối với mỗi đoàn viên và thanh niên.

Nhận rõ vinh dự và trách nhiệm, tổ chức Đoàn và Hội đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị tập trung sâu rộng về Bác Hồ trong đoàn viên, hội viên và thanh niên cả nước.

Uỷ ban TW Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã đề ra những hành động cụ thể trong năm 1970 là:

1- Động viên các tầng lớp thanh niên sôi nổi trên các mặt trận lao động sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, hành động và xây dựng cuộc sống mới, lập thành tích xuất sắc để thiết thực đón 4 ngày lễ lịch sử. Mọi suy nghĩ và hành động của thanh niên phải quán triệt tinh thần "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại".

2- Để góp phần bồi dưỡng đào tạo con người phát triển toàn diện, Hội Liên hiệp Thanh niên các thành phố và Hội Liên hiệp Học sinh đại học cần vận động đông đảo thanh niên và học sinh hưởng ứng những quy định sau do Đoàn Thanh niên phát động: Hát 4 bài là: Tin tưởng Đảng (sáng tác tập thể của trường sĩ quan lục quân Việt Nam); Đảng cho ta cả một mùa xuân (Nhạc - Lời Phạm Tuyên); Ca ngợi Hồ Chủ tịch (Nhạc và lời của Đỗ Nhuận); Khi ta nghe tiếng Người (Nhạc và lời của Lê Lam); đọc 4 cuốn sách là: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (Trần Dân Tiên - Nxb Văn Hóa); 40 năm hoạt động của Đảng (Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương - Nxb Sự Thật); Xem 4 cuốn phim: Những chặng đường lịch sử; Vài hình ảnh hoạt động của Hồ Chủ tịch; Bác Hồ sống mãi; Mười năm thắng lợi. Chương trình hành động do Hội Liên hiệp Thanh niên đề ra đã được toàn thể hội viên thanh niên hưởng ứng mạnh mẽ trong cả nước.

Thất bại hết sức nặng nề trên chiến trường miền Nam cũng như ở Lào và Campuchia, hòng cứu nguy cho nguỵ quân, nguỵ quyền từ tháng 4/1972 đế quốc Mỹ điên cuồng cho không quân đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam. Trường học, bệnh viện, nhà trẻ… lại bị bom Mỹ tàn phá. Với tư thế “Ba sẵn sàng”, thanh niên, công nhân một lần nữa lại sơ tán máy móc đến nơi an toàn, tiếp tục bám máy, bám lò, tiếp tục tay búa, tay súng hiên ngang vừa sản xuất vừa đánh trả máy bay Mỹ. Thanh niên công nhân Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Thái (Bắc Kạn, Thái Nguyên), Hà Nội và khắp các xí nghiệp, công trường khác đã nêu tấm gương sáng ngời về tinh thần chiến đấu hi sinh vì chủ nghĩa xã hội, vì miền Nam ruột thịt. Thanh niên công nhân vùng mỏ hiểu rõ “ trong chiến đấu Tổ quốc cần than hơn bao giờ hết”, đã thường xuyên bám hầm lò, phấn đấu thực hiện đi lò nhanh. Tuổi trẻ Hải Phòng bình tĩnh, gan dạ vượt qua lưới lửa phong toả của địch giữ vững sản xuất trong mọi tình huống. Trên các cầu cảng, đoàn viên trong lực lượng tự vệ của cảng như Lâm Thị Chỉ, Nguyễn Văn Chiến, Đậu Ngọc Xuân… dũng cảm chiến đấu đánh trả máy bay địch, bảo vệ cảng, bảo vệ hàng.

Những ngày cuối tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ điên cuồng cho máy bay B52 rải thảm xuống nhiều khu vực đông dân ở Thủ đô Hà Nội. Bệnh viện Bạch Mai bị trúng bom. Khu phố Khâm Thiên bị B52 rải thảm. Đồng ruộng Uy Mỗ (Đông Anh) bị bom cày xới… Thanh niên Hà Nội đã ngẩng cao đầu. Một nữ dân quân ngoại thành khi nghe tin gia đình có người bị bom Mỹ sát hại, đang trực chiến, đã không rời trận địa. Cô nói với đồng đội đầy cương nghị: “Không được để nước mắt làm nhoà mặt kẻ thù”.

Cả Hà Nội hiên ngang làm lên một Điện Biên Phủ trên không, trở thành Thủ đô của lương tâm và phẩm giá con người. Trong 12 ngày đêm, Hà Nội đã nêu một kỷ lục về diệt máy bay: Bắn rơi 81 chiếc, trong đó có 34 chiếc máy bay chiến lược B52 và 5 máy bay cánh cụp cánh xoè F111. Tự vệ nhà máy xay, với đơn vị thanh niên tự vệ trang bị súng 12,7 ly, cảnh giác cao đã hạ cánh cụp cánh xoè tại chỗ.

Cả Hà Nội vào trận, tầng thấp, tầng cao, lưới lửa chăng dày đón đánh địch từ mọi hướng, mọi tầm. Trên các trận địa tên lửa, trên các sân bay dã chiến, nhiều chiến sỹ trẻ lần đầu giáp trận với siêu pháo đài bay B52 đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nổ súng kịp thời tiêu diệt địch. Trắc thủ tính toán Dương Nhật Thăng, vốn là sinh viên trường Đại học Ngoại giao nhập ngũ chưa bao lâu được chuyển về phân đội 9 bộ đội tên lửa đã đánh địch liên tục mấy trận liền, không để một lần sai sót. Sĩ quan điều khiển Nguyễn Đình Kiên, 3 đêm thức trắng, vẫn tỏ ra tỉnh táo khi bắt gặp mục tiêu 52. Anh đã cùng với trắc thủ cự ly Mè Văn Thi, trắc thủ phương vị Nguyễn Xuân Đài, trắc thủ góc tà Ngô Văn Lịch và các đoàn viên Lê Anh Chiến, Đỗ Xuân Thanh, Nguyễn Văn Vọng.v.v... hiệp đồng chặt chẽ, bắn rơi máy bay B52 khi chúng xâm phạm vùng trời Hà Nội. Phi công Phạm Tuân, người sau này trở thành phi công vũ trụ đầu tiên của Việt Nam trong chuyến bay hợp tác Xô - Việt, bằng máy bay chiến đấu Míc đã bắn hạ máy bay chiến lược B52 của Mỹ, đem lại vinh quang và niềm tự hào chính đáng cho những phi công trẻ tuổi Việt Nam.

Trong 12 ngày đêm, Hà Nội hiên ngang đối đầu với siêu pháo đài bay B52, tuổi trẻ Hà Nội không chỉ chiến thắng từ trên những tầm cao hoả lực. Từ mỗi góc phố, mỗi cơ quan, xí nghiệp, công trường… tuổi trẻ Hà Nội đã luôn tỏ rõ khí thế lẫm liệt của thế hệ thanh niên “ Ba sẵn sàng” từng được thử thách dày dạn.
Đoàn viên, thanh niên Nhà máy điện Yên Phụ một lần nữa lại tình nguyện làm người cảm tử bảo vệ dòng điện. Đội thanh niên cảm tử gồm 70 đoàn viên và thanh niên được thành lập với lời thề dưới cờ Tổ quốc và cờ Đảng: Xin dâng trọn tuổi Đoàn để bảo vệ dòng điện của Thủ đô!

Trong suốt 12 ngày đêm chiến đấu quyết liệt đánh trả liên tiếp mấy chục đợt tiến công của máy bay Mỹ, dòng điện từ Nhà máy điện Yên Phụ vẫn liên tục phát sáng. Mỹ dùng cả bom lade đánh vào nhà máy. Các chiến sỹ trong đội cảm tử bảo vệ dòng điện lấy máu mình viết lên khẩu hiệu để phấn đấu làm theo: “Tim có thể ngừng đập, nhưng dòng điện không thể nào tắt!”. Đặng Đức Thọ, Vũ Xuân Hoà, 2 đoàn viên trong đội cảm tử đang làm nhiệm vụ vận hành máy, máy bay Mỹ đến đánh phá, các anh vẫn không chịu rời vị trí. Cuối cùng cả hai anh đều hy sinh, nhưng dòng điện của Thủ đô vẫn sáng.

Chiến công vẻ vang của đoàn viên, thanh niên, quân dân Hà Nội hoà cùng chiến công chung của quân và dân cả nước đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam thống nhất. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta bước vào một thời kỳ mới đầy thử thách cam go và giành thắng lợi quyết định.

Trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, phong trào lao động sản xuất, nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, chi viện cho tiền tuyến lớn được đẩy mạnh. Đoàn viên và thanh niên ở hầu khắp các cơ sở đều sôi nổi thi đua hoàn thành vượt mức kế hoạch. Thành Đoàn Hà Nội phát động rộng rãi phong trào “Lao động tình nguyện”. Tổng đội “Thanh niên tình nguyện xây dựng Thủ đô” được thành lập đảm nhận nhiều công trình, phần việc khó khăn và nhằm khôi phục lại những công trình bị địch đánh phá hư hỏng. Thanh niên trong các cơ sở sản xuất thực hiện ngày giờ công cao, đăng ký phấn đấu tăng năng suất, hoàn thành vượt mức kế hoạch, xây dựng phong cách lao động mới. Nhiều công trình thanh niên, lò, máy, xe thanh niên, tổ sản xuất thanh niên, quầy hàng thanh niên… được triển khai, thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên khác ở Nhà máy Cơ khí Hà Nội (nay là Nhà máy Công cụ số 1), thường xuyên phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất đã hoàn thành kế hoạch năm trước thời gian 120 ngày. Thi đua với Cung Đình Phú, năm 1974 riêng ở Hà Nội đã có hơn sáu ngàn đoàn viên và thanh niên hoàn thành kế hoạch được giao trước thời hạn từ 15 ngày đến 6 tháng.

Đánh giá cao những cống hiến xuất sắc của tuổi trẻ, tháng 6 năm 1973, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn đã tổ chức Đại hội tổng kết phong trào “Ba sẵn sàng” toàn miền Bắc. Đại hội đã quy tụ hàng trăm bông hoa tiêu biểu cho hàng vạn tập thể và cá nhân từng lập nên những sự tích kỳ diệu trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân, như Nguyễn Tri Ân, Hồ Thị Thu Hiền, Ngô Thị Sửu… Trong báo cáo tổng kết phong trào, đồng chí Vũ Quang, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành TW Đoàn đã rút ra những bài học sinh động về nghệ thuật phát động, chỉ đạo phong trào, vai trò của tổ chức Đoàn đối với một phong trào quần chúng rộng lớn diễn ra trong một thời gian dài, trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống chiến đấu, sản xuất, học tập và rèn luyện.

Đại hội vinh dự được đón Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến dự. Bác Tôn nói: “Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc, cùng với phong trào “Năm xung phong” của thanh niên miền Nam đã góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta… Nhiều tấm gương anh dũng tuyệt vời của thanh niên ta cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, mãi mãi sáng ngời để cho mọi người tin theo”.
Nói chuyện với Đại hội, đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã khẳng định: “Một trong những thành quả to lớn của cao trào chống Mỹ, cứu nước là đào tạo thanh niên “Ba sẵn sàng” thành lớp người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp vĩ đại của Đảng ta và của Hồ Chủ tịch, góp phần thực hiện lời căn dặn thiết tha của Người: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đồng chí đánh giá: “Phong trào “Ba sẵn sàng” thật sự là một phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng thanh niên, là chiến trường lập công của tuổi trẻ, là trường học bồi dưỡng một thế hệ thanh niên anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”.

Đồng chí Trường Chinh, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng trao tặng thanh niên lá cờ mang dòng chữ: “Thanh niên hăng hái tiến lên hàng đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và xây dựng cuộc sống mới”.

Ban Chấp hành Trung ương Đoàn coi đó là khẩu hiệu hành động của tuổi trẻ trong giai đoạn cách mạng mới.

Từ ngày 25-7 đến ngày 5-8-1973 đã diễn ra Đại hội liên hoan thanh niên, sinh viên quốc tế lần thứ X tại Berlin (thủ đô CHDC Đức cũ), 25.000 đại biểu đại diện cho tổ chức thanh niên của 130 nước. Khẩu hiệu hành động của Đại hội là "Đoàn kết với Việt Nam bây giờ hơn lúc nào hết". Đoàn đại biểu của thanh niên, sinh viên Việt Nam có 200 người, do Tạ Thị Kiều - Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam dẫn đầu. Đại hội dành ngày thứ hai là ngày "Đoàn kết với Việt Nam, Lào, Campuchia". Đoàn đại biểu của thanh niên, sinh viên Việt Nam đã làm hết sức mình để thanh niên thế giới hiểu cuộc đấu tranh của thanh niên và nhân dân ta.

Tháng 2/1974, để kịp thời chỉ đạo phong trào hành động cách mạng của thanh niên, trong khi chưa có điều kiện tổ chức Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh. Hội nghị đại biểu của Đoàn đã khẳng định nhiệm vụ trong giai đoạn mới: “Giáo dục, động viên, tổ chức và phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong phong trào lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, trong học tập và xây dựng cuộc sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa”.

 

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
   
 
 
 
 
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 16.071.700
Truy cập hiện tại 1.263